Theo các chuyên gia sinh học quốc tế, thủy tùng (tên khoa học: Glyptostrobus pensilis), thuộc họ bụt mọc, xuất hiện cùng thời với bách xanh cổ cách đây khoảng 10 triệu năm. Sự tồn tại của nó được xem như một minh chứng sống động về lịch sử tiến hóa của ngành hạt trần. Cả Sách đỏ thế giới và Sách đỏ Việt Nam đều xếp thủy tùng vào danh sách những loài nguy cấp, cần được bảo vệ đặc biệt.
Tại Việt Nam, loài cây quý hiếm này chỉ còn phân bố ở hai quần thể tự nhiên tại tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể, xã Ea Ral, huyện Ea H’leo có khoảng 140 cây, xã Ea Hồ, huyện Krông Năng có 21 cây và một cá thể duy nhất tại thị xã Buôn Hồ. Điều đáng báo động là, gần nửa thế kỷ qua, thủy tùng tại Việt Nam không còn khả năng tái sinh tự nhiên. Dù vẫn ra hoa kết quả, nhưng hạt thủy tùng đều bị lép, mất khả năng nảy mầm do không thụ phấn. Hàng nghìn nhà khoa học trong và ngoài nước đã và đang nỗ lực nghiên cứu để cứu lấy loài cây đặc biệt này.
Cây thuỷ tùng
Thủy tùng là loại cây thân gỗ lớn, có thể cao trên 30m, đường kính thân từ 0,6 đến 1m. Vỏ cây dày, hơi xốp, màu xám và nứt dọc. Gỗ thủy tùng sở hữu vẻ đẹp độc đáo với nhiều màu sắc đa dạng như xanh đen, xanh ngọc bích, tím, vàng, đỏ, nâu đỏ, cùng với các loại vân chỉ, vân chuối hoặc không vân.
Đối với những người sành chơi đồ gỗ, giá trị của thủy tùng không được định lượng theo cân hay khối, mà phụ thuộc vào tuổi thọ và đường vân của từng khúc gỗ. Một khúc gỗ thủy tùng có tuổi đời trên 500 năm, với đường kính gốc gần 1m, chắc chắn có giá trị lên tới tiền tỷ. Tuy nhiên, phần thân gỗ mới là nơi chứa đựng giá trị cao nhất, bởi đây là nơi vân gỗ thể hiện rõ nét nhất, đều đặn và mang theo mùi hương đậm đà.
Về giá trị kinh tế, gỗ thủy tùng đắt đỏ là nhờ vào màu sắc viền gỗ đẹp mắt, khả năng chống mối mọt vượt trội, nên được ưa chuộng làm tượng, đồ mỹ nghệ cao cấp. Những sản phẩm làm từ thủy tùng đỏ có thể có giá từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu đồng. Nhìn chung, gỗ thủy tùng là loại gỗ tốt, có mùi thơm dễ chịu, thớ mịn, không bị mối mọt, nứt nẻ hay cong vênh. Đặc tính xốp nhẹ, dễ gia công của loại gỗ này còn được ứng dụng trong sản xuất mũ, nút chai, phích cắm và phao cứu sinh.
Trên thị trường, gỗ thủy tùng tồn tại dưới hai dạng chính là thủy tùng xanh và thủy tùng đỏ, mỗi loại mang những đặc điểm riêng biệt. Thủy tùng xanh có màu xanh đen tự nhiên do quá trình nằm sâu dưới bùn đất, môi trường ẩm đã làm biến đổi màu sắc khối gỗ một cách kỳ diệu. Tuy nhiên, loại thủy tùng này thường nằm sâu dưới lòng đất Tây Nguyên hoặc dưới lòng hồ thủy điện, khiến việc khai thác trở nên vô cùng khó khăn. Ngược lại, thủy tùng đỏ thường sống trong môi trường khô ráo, sở hữu màu đỏ, nâu sẫm với vân nhỏ hơn và đôi khi có những đốm sẫm màu trên thân gỗ.
Ngoài giá trị về gỗ, cành lá và nón chín của thủy tùng còn có công dụng làm thuốc chữa phong thấp, giảm đau, làm săn da. Với dáng cây đẹp, thủy tùng còn có thể được trồng làm cảnh hoặc trồng ven hồ ao để bảo vệ đất, chống xói lở. Theo quan niệm phong thủy, gỗ thủy tùng mang lại vượng khí, vì vậy các nghệ nhân hàng đầu Việt Nam thường dùng loại gỗ này để chế tác lục bình, tượng với ý nghĩa mang lại bình an và may mắn cho gia đình.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 32/2006/NĐCP, xếp thủy tùng vào nhóm IA, nghiêm cấm mọi hành vi khai thác và sử dụng với mục đích thương mại. Trước đây, vào những năm 90 của thế kỷ trước, hai quần thể thủy tùng ở Đắk Lắk là Ea Ral và Trấp Ksơr từng có hàng ngàn cây. Tuy nhiên, do việc xây dựng đập thủy lợi phục vụ nông nghiệp đã làm ngập úng nhiều diện tích, khiến cây chết chìm sâu vào đầm lầy, cộng thêm nạn khai thác ồ ạt, số lượng thủy tùng đã sụt giảm nghiêm trọng, chỉ còn 162 cây như hiện nay.