Trang chủ Thâm cung bí sử Vị hoàng đế bất bại trong thời kỳ Tam Quốc là ai?

Vị hoàng đế bất bại trong thời kỳ Tam Quốc là ai?

bởi Admin
0 Lượt xem

Tôn Trọng Mưu sống thọ nhất so với Tào Tháo, Lưu Bị, ông mất năm 71 tuổi; có thời gian cầm quyền Đông Ngô dài nhất, tới 52 năm và là ông vua duy nhất trong hơn 300 vị quân vương của lịch sử Trung Quốc được gọi là “thiên cổ đại đế”.

Sở dĩ có danh xưng như vậy, bởi sau khi qua đời năm 252, Tôn Quyền được truy phong thụy hiệu Ngô thái tổ Đại hoàng đế. Ông là “Đại hoàng đế” duy nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Tôn Quyền kế thừa cơ nghiệp của cha và anh, trấn thủ Giang Nam. Ông là người giỏi mưu lược, biết thay đổi theo thời cuộc, nhờ vậy mà thành bá chủ một phương.

img

Tào Tháo – Lưu Bị – Tôn Quyền, ba vị Hoàng đế kiệt xuất thời tam quốc. Ảnh: Sohu.

Sử gia Trần Thọ – tác giả “Tam Quốc Chí” đánh giá về ông – “Mưu lược, tài năng như Câu Tiễn, là người kiệt xuất”.

Tôn Quyền là nhà chiến lược tài ba, có năng lực vượt trội được thể hiện ở nhiều lĩnh vực: nắm đại quyền chính trị, quân sự, bành trướng lãnh thổ, phát triển kinh tế.

Năm 213, Tào Tháo xua quân Nam hạ đánh Ngô. “Tam Quốc Chí – Thục thư” và “Ngô lịch” đều chép – “(Tào Tháo) nhìn quân đội của Quyền, thầm than mà rút lui”. Đó chính là chiến dịch Nhu Tu Khẩu mà Tôn Quyền buộc Tào Tháo lui quân “không kèn không trống”.

Một đối thủ lớn khác của Tôn Quyền là Gia Cát Lượng cũng đề cao ông trong “Long Trung đối sách” – “Tôn Quyền chiếm cứ Giang Đông đã qua 3 đời. Dân giàu nước mạnh, hiền tài vô số”.

Ngoài ra, như anh trai ông là Tôn Sách đã nói với ông: “Cất quân Giang Đông, quyết được thua giữa trận ta và trận địch, tranh hùng cùng thiên hạ, thì em không bằng anh, nhưng cất người hiền, dùng người tài, khiến ai cũng hết sức giữ đất Giang Đông, thì anh không bằng được em. Em nên nghĩ đến cơ nghiệp của cha anh đã khó nhọc mới gây dựng nên, tự lo liệu cho khéo”.

Chính quyền Tôn Ngô dưới sự thống trị của Tôn Quyền có khả năng hùng cứ Giang Đông, đỉnh lập cùng Ngụy, Thục, Bên cạnh yếu tố “địa lợi” – Bắc có sông lớn, Tây có núi hiểm, thì quan trọng nhất là “nhân hòa”.

Tôn Quyền khéo dùng nhân tài, lập nên vị thế bất bại thời Tam Quốc

Về phương diện dùng người, Tôn Quyền có câu: “Trân quý sở trường, quên đi sở đoản”. Ông cho rằng ngoài việc tán thưởng ưu điểm của người khác, thì cũng cần bao dung khuyết điểm của họ, nếu không rất dễ khiến bản thân sa lầy vào những chỉ trích vô nghĩa, thậm chí còn tạo thành rắc rối không đáng có.

Vì là người giỏi trân quý sở trường, quên đi sở đoản của người khác, nên Tôn Quyền không ngại đề bạt nhân tài, khiến Đông Ngô có được nền chính trị vững chãi, dân giàu nước mạnh.

Tôn Quyền có tài dùng người, nhất là những lúc nguy cấp mang tính sống còn, thì tài năng này càng được phát huy xuất sắc hơn. Ông lần lượt đề bạt Chu Du, Lã Mông, Lục Tốn làm thống soái, và tất cả họ đều phát huy tốt năng lực của mình.

Trong trận chiến Xích Bích, Chu Du đã liên minh Lưu Bị cùng chống Tào, lấy yếu đánh mạnh, đánh bại quân Tào, củng cố cơ nghiệp của Đông Ngô. Lã Mông không chỉ lập nhiều chiến công, trong trận Di Lăng ông đã phối hợp cùng Lục Tốn đánh bại quân Thục, mở rộng phạm vi thế lực của Đông Ngô.

img

Ảnh: Trận chiến XÍch Bích thời Tam Quốc, Tôn Quyền liên hợp với Lưu Bị để chống lại Tào Tháo. Nguồn: Sohu.

Với những nhân tài kiệt xuất này, Tôn Quyền càng thêm kính trọng, đối đãi họ bằng cả lễ nghĩa và chân thành. Ông coi Chu Du như một người anh, khi Chu Du mất, ông đã “mặc tang phục khóc tang, khiến trên dưới đều cảm động”.

Mãi đến khi xưng đế, ông vẫn xúc động nói rằng: “Trẫm nếu không nhờ Chu Công Cẩn, thì không thể trở thành hoàng đế được!”.

Đối với Lã Mông, Tôn Quyền hết sức tán thưởng, khen ông “mưu lược đầy mình”. Khi Lã Mông bệnh nặng, ông rất quan tâm, không tiếc chi tiền để mời đại phu chẩn đoán và điều trị, còn quan sát tình trạng sức khỏe của Lã Mông, thấy ông ăn uống được thì mặt mày rạng rỡ, còn không thì lòng dạ bồn chồn đứng ngồi không yên.

Khi Lã Mông qua đời, tiếng khóc thương của ông để lộ chân tình, cảm động mọi người chung quanh.

Đối với Lục Tốn, ông đặc biệt tin tưởng, đặc biệt dành ra một con dấu riêng. Mỗi khi trao đổi thư từ với bên Thục Hán, ông luôn để Lục Tốn xem qua, Lục Tốn mà thấy có chỗ không ổn, thì có thể tự mình chỉnh sửa, rồi đóng dấu gửi đi.

Năm Hoàng Võ thứ 7, Đại Tư mã Tào Hưu của nước Ngụy thống lãnh đại quân xâm lược phương nam, Lục Tốn dẫn binh nghênh chiến, Tôn Quyền đã đích thân cầm roi cho ông. Về sau, Tôn Quyền lại để Lục Tốn phò tá Thái tử Tôn Đăng trấn thủ Vũ Xương, và giao ông chức Tổng đốc, có thể nói là càng thêm tín nhiệm.

Sách lược khôn ngoan hoàn thành đế nghiệp

Tôn Quyền chắc chắn là nhân vật có hùng tâm tráng chí, và ông đã từng bước thực hiện “mộng đế vương” của mình một cách khôn ngoan.

Ban đầu, khi quần thần khuyên Tôn Quyền xưng đế ở Giang Đông, ông đã nhiều lần thoái thác.

Nguyên nhân bởi đương thời Tào Tháo sở hữu lực lượng quân đội với quân số hàng triệu người, giương cao khẩu hiệu “phò tá Thiên tử hiệu lệnh chư hầu”.

Trong khi đó, Lưu Bị cũng dựa vào danh nghĩa “Hoàng thúc” để dựng cờ “quang phục Hán thất”. Cả Tào Tháo và Lưu Bị khi đó đều sở hữu ưu thế chính trị lớn hơn Tôn Quyền.

Tôn Quyền tự biết bản thân không “danh chính ngôn thuận”, cho nên đã hết sức ẩn nhẫn, không hề lộ ra ý đồ chính trị của mình.

Trong thời Tam Quốc phân tranh, ông thường cúi mình nhẫn nhục hoặc mượn sức một bên để tránh gây thù chuốc oán với cả hai bên.

Như trong những ngày đầu, ông đã tiếp nhận các chức vị Thảo lỗ tướng quân, Thái thú Cối Kê của Tào Tháo; trong trận Xích Bích, ông đã liên minh với Lưu Bị cùng chống lại Tào Tháo;

Trong trận Kinh Châu, ông đã hợp sức với Tào Tháo để đánh bại Quan Vũ, đoạt lại Kinh Châu; trong trận Di Lăng, để tránh nước Ngụy thừa cơ đánh úp, ông đã dâng thư xưng thần với Ngụy Văn Đế và được phong là Ngô vương;

Sau chiến thắng trong trận Di Lăng, ông chủ động xin lỗi Lưu Bị để khôi phục mối quan hệ giữa Ngô và Thục, khiến Tào Ngụy không dám manh động.

Mãi tới năm 229, khi cả Tào Tháo và Lưu Bị đã qua đời, cục diện chính trị tại Đông Ngô ổn định, Tôn Quyền có được “điều kiện vẹn toàn”, ông mới đăng cơ xưng đế.

Thời đại cai trị của Tôn Quyền được đánh giá là “thành công”, khi ông phát triển mạnh mẽ kinh tế Đông Ngô và mở rộng quan hệ ngoại giao với khu vực xung quanh.

Các đội thuyền của Đông Ngô từng tới Philippines, Ấn Độ, Ả Rập… mở rộng phạm vi giao thương, giúp Đông Ngô duy trì vị thế “đỉnh lập” khi thường xuyên phải đối đầu quân sự với Thục và Ngụy.

Nguồn: Dân Việt

Bài viết liên quan